Thứ 2 - Thứ 7 (09am - 10pm)

+84-24-6297-7875

Phòng ngừa bệnh đau thắt ngực ổn định

Đau thắt ngực ổn định còn được gọi là bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính, được William Heberden mô tả lần đầu tiên vào năm 1789 với thuật ngữ “đau thắt ngực”.
 

Đau thắt ngực ổn định còn được gọi là bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính, được William Heberden mô tả lần đầu tiên vào năm 1789 với thuật ngữ “đau thắt ngực”. Đây là bệnh thường gặp nhất ở các nước phát triển và có xu hướng gia tăng nhanh ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Biểu hiện của cơn đau thắt ngực ổn định

Máu được cung cấp cho cơ tim qua hệ thống động mạch vành. Các nhánh động mạch vành xuất phát từ gốc động mạch chủ. Hệ động mạch vành gồm có động mạch vành trái và động mạch vành phải. Các động mạch này chia ra các nhánh nhỏ hơn tới nuôi từng vùng cơ tim. Bệnh động mạch vành xuất hiện khi một hoặc nhiều nhánh động mạch này bị tắc nghẽn một phần hay hoàn toàn (thường là do các mảng xơ vữa). Thông thường cơn đau thắt ngực có thể xảy ra khi động mạch vành bị hẹp trên 50% khẩu kính của lòng mạch.

Khi hoạt động thể lực, cơ thể cần nhiều ôxy hơn nên cơ tim phải làm việc nhiều hơn như: tăng co bóp, tăng tần số tim, huyết áp tăng… do đó nhu cầu ôxy của cơ tim cũng tăng lên. Nếu một nhánh động mạch vành bị hẹp, sự cung cấp máu cho vùng cơ tim tương ứng trở nên không đầy đủ. Cơ tim bị thiếu máu và thiếu ôxy gây cơn đau thắt ngực. Cơn đau thắt ngực này thường xảy ra khi gắng sức và giảm đi khi bệnh nhân được nghỉ ngơi, nên người ta gọi là cơn đau thắt ngực ổn định.

Vị trí đau thường ở vùng giữa ngực, sau xương ức hay vùng trước tim. Đau có thể lan lên cổ, ra hàm, ra cánh tay, thường gặp nhất là lan ra bên trái. Đôi khi đau ở vùng thượng vị. Cảm giác bó chặt, thắt nghẹt, đè ép, đôi khi chỉ là cảm giác khó chịu trong ngực. Có trường hợp đau lan ra sau lưng, ra vùng cột sống làm người bệnh tưởng lầm là đau do thoái hóa cột sống thắt lưng.

Cơn đau thắt ngực ổn định thường tự hết từ 1-5 phút sau khi ngừng gắng sức. Đôi khi đau thắt ngực ổn định có thể thầm lặng (không đau hoặc đau ngực không điển hình) gọi là thiếu máu cơ tim thầm lặng.

 
Hẹp động mạch gây những cơn đau thắt ngực ổn định.

Hẹp động mạch gây những cơn đau thắt ngực ổn định.

Nguyên nhân gây đau thắt ngực ổn định

Bệnh tim mạch thường do nhiều nguyên nhân phối hợp gây nên. Các yếu tố nguy cơ thường phối hợp với nhau để tạo ra các mảng xơ vữa. Trong đó tăng cholesterol máu là yếu tố nguy cơ chủ yếu. Có 4 loại chất béo chủ yếu tồn tại trong máu: LDL-Cholesterol (được biết là một loại cholesterol có hại), HDL-Cholesterol (được biết là một loại cholesterol có ích), cholesterol toàn phần và triglycerid. Khi các chỉ số đó ở mức độ không bình thường có thể gây ra bệnh vữa xơ động mạch, trong đó có vữa xơ động mạch vành.

Mảng xơ vữa chủ yếu là do các chất mỡ lắng đọng trên thành mạch máu, có cấu tạo bởi một nhân lipid và một vỏ xơ. Mảng xơ vữa làm giảm khẩu kính lòng mạch và dần dần gây tắc mạch.

Các yếu tố nguy cơ của đau thắt ngực ổn định

Tuổi: tuổi càng cao càng có nhiều nguy cơ bị bệnh động mạch vành; nữ giới: nữ giới có nguy cơ bị bệnh động mạch vành cao hơn sau khi mãn kinh; tiền sử gia đình; những người hút thuốc lá; lối sống ít vận động; tăng huyết áp; tiểu đường; béo phì; rối loạn lipid máu cũng là những nguyên nhân gây ra đau thắt ngực ổn định…

Uống quá nhiều rượu, bia cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ra thiếu máu mạn tính cục bộ ở cơ tim, làm xuất hiện những cơn đau thắt ngực ổn định.

Phát hiện bệnh thế nào?

Để xác định xem dấu hiệu đau ngực có phải là do bệnh động mạch vành hay không, bác sĩ có thể phải tiến hành một số thăm dò cơ bản: điện tâm đồ lúc nghỉ; điện tim gắng sức; xạ hình cơ tim; siêu âm tim gắng sức; điện tâm đồ 24 giờ (Holter điện đồ): một máy ghi điện tâm đồ nhỏ được gắn trên người bệnh. Bệnh nhân có thể đi lại và làm việc bình thường. Máy sẽ tự động ghi lại mọi hoạt động của tim liên tục trong 24 giờ; chụp cắt lớp động mạch vành (Multislices CT scanner): máy chụp cắt lớp có tốc độ rất nhanh cho phép chụp được hình ảnh động mạch vành; chụp động mạch vành chọn lọc: giúp chẩn đoán xác định bệnh, đánh giá chính xác mức độ tổn thương của hệ động mạch vành và giúp lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp nhất.

Điều trị đau thắt ngực ổn định

Điều trị nội khoa: điều trị bằng thuốc, có thể dùng một hoặc nhiều loại thuốc kết hợp với nhau. Phương pháp này làm giảm được triệu chứng nhưng không giải quyết được nguyên nhân là hẹp lòng động mạch vành; phẫu thuật bắc cầu nối chủ – vành: vùng cơ tim bị thiếu máu sẽ được cung cấp máu bởi một mạch máu khác vòng qua chỗ động mạch vành bị hẹp hoặc tắc; can thiệp động mạch vành qua da: đây là phương pháp hiện đại đang được ứng dụng điều trị hiệu quả ở nước ta, không phải mổ xẻ, vừa làm giảm triệu chứng vừa giải quyết được nguyên nhân là hẹp lòng động mạch vành.

Phòng ngừa đau thắt ngực

Cho dù người bệnh đã được điều trị bằng phương pháp ngoại khoa hay tim mạch can thiệp thì việc thay đổi lối sống, điều trị một số bệnh có liên quan và tiếp tục sử dụng lâu dài một số thuốc là hết sức cần thiết để điều trị và phòng ngừa đau thắt ngực.

Thay đổi lối sống: Hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu của bệnh, do vậy không hút thuốc lá là yêu cầu quan trọng. Xây dựng một lối sống thanh thản, vui vẻ, tránh căng thẳng quá mức, nhất là tình trạng stress.

Hạn chế tối đa ăn mỡ động vật, ăn nhiều rau xanh, trái cây, ăn ít đường, bơ, phomát, không nên ăn mặn, những món dưa, cà càng hạn chế. Đặc biệt, không nên khoái khẩu với các món phủ tạng động vật, nhiều người cho rằng “ăn gì bổ nấy” cho nên người mắc bệnh tim mạch lại hay ăn tim động vật, điều này chẳng những không bổ dưỡng cho tim mà còn làm gia tăng những yếu tố nguy hiểm cho tim, đó chính là sự gia tăng của cholesterol có hại. Không uống nhiều rượu, bia và những chất kích thích khác.

Tập thể dục thường xuyên, đặc biệt là đi bộ hằng ngày, tối thiểu là 30 phút/ngày vào buổi sáng hoặc buổi tối.

Đối với những người đã có cơn đau thắt ngực ổn định, tất cả những yêu cầu trên càng cần phải kiêng và thực hiện triệt để. Đồng thời cần phát hiện và điều trị những bệnh liên quan đến bệnh mạch vành như tiểu đường, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, béo phì – thừa cân.

                                                                       TS. Nguyễn Quang Tuấn (suckhoedoisong.vn)


Chia sẻ bài viết lên


Tin liên quan