Làm sao để phòng ngừa các biến chứng của tăng huyết áp?

12/09/2025
125

Tăng huyết áp chính là một trong những nguyên nhân gây tử vong sớm ở người bệnh tim mạch. Việc không điều trị hoặc điều trị nhưng không kiểm soát được huyết áp sẽ dễ dẫn đến biến chứng tăng huyết áp lên trên tim, não, thận và một số cơ quan khác.

1.Huyết áp cao nguy hiểm như thế nào?

Ở Việt Nam, có 25% người lớn trên 25 tuổi có huyết áp cao. Trong đó gần 60% người bị tăng huyết áp chưa được phát hiện và trên 80% chưa được điều trị. Cứ 5 người tăng huyết áp được điều trị thì chỉ có 1 người đạt được kiểm soát huyết áp.

Huyết áp là áp lực máu trong lòng mạch, gồm có hai trị số (ví dụ: huyết áp 120/70 mmHg): huyết áp tâm thu (số đầu) chính là áp lực máu trong lòng mạch lúc tim co bóp và huyết áp tâm trương (số sau) là áp lực máu trong lòng mạch lúc tim thư giãn. Hệ thống mạch máu trong cơ thể giống như các ống dẫn, đưa máu đến các cơ quan.

Hệ thống ống dẫn này nếu như chịu một áp lực cao lâu ngày sẽ dễ phình giãn (thành ống yếu đi, dễ bị vỡ, rách), hoặc cứng lại làm mất tính đàn hồi mềm mại, hoặc lớp bên trong bị tổn thương và tích tụ các mảng xơ vữa gây hẹp và bít tắc dần. Tất cả các mạch máu lớn (như động mạch chủ, động mạch cảnh…) và động mạch nhỏ (mạch máu ở đáy mắt, não, cầu thận…) toàn thân đều bị ảnh hưởng bởi bệnh tăng huyết áp.

 2.Những biến chứng nguy hiểm của tăng huyết áp

Bệnh tăng huyết áp nếu để lâu và không được điều trị hoặc điều trị nhưng không kiểm soát được huyết áp sẽ dẫn tới các biến chứng như:

– Suy tim

Khi huyết áp tăng cao, tim co bóp tốn nhiều công hơn để bơm một lượng máu ra các mạch ngoại biên. Hậu quả của việc gắng sức lâu ngày này là làm cho cơ tim dày lên, cứng hơn, ít đàn hồi giãn nở so với tim bình thường, từ đó gây suy giảm chức năng hút máu về tim. Người bệnh sẽ có triệu chứng của suy tim khi máu về tim khó khăn, ứ đọng ở phổi gây khó thở, giảm khả năng làm việc gắng sức hoặc tức ngực.

Bên cạnh đó, người bệnh tăng huyết áp thường kèm bệnh nhồi máu cơ tim, mạch vành trước đó nên chức năng tim có thể giảm. Trong điều trị, nếu huyết áp không ổn định, thường xuyên cao sẽ thúc đẩy suy tim nặng lên, mất bù do tim làm việc với công lớn (suy tim mất bù), tải nặng.

– Biến chứng ở mắt

Huyết áp cao gây nên những tổn thương ở các mạch máu nhỏ ở đáy mắt (nằm phía sau nhãn cầu, gọi là võng mạc, đây là nơi thu nhận hình ảnh khi nhìn), gọi là bệnh võng mạch do tăng huyết áp. Tổn thương mạch máu ở võng mạc mức độ nhẹ đến vừa có thể không gây triệu chứng gì, chỉ phát hiện được khi khám mắt, chụp võng mạc.

Khi đó sẽ thấy các mạch máu này đi ngoằn ngoèo, có chỗ hẹp, cứng, co thắt hoặc bị phù nề, nặng hơn là xuất huyết sau võng mạc hay phù gai thị dẫn đến nhìn mờ hay mù mắt.

Chính vì thế, người bệnh tăng huyết áp cần khám mắt định kỳ, chụp võng mạc để phát hiện sớm biến chứng này. Việc điều trị kiểm soát huyết áp tốt sẽ giúp phòng tránh bệnh võng mạch do tăng huyết áp.

– Phình và bóc tách động mạch chủ

Huyết áp cao gây tăng áp lực lên thành động mạch chủ, lâu ngày là thành mạch bị suy yếu, giãn lớn ra. Giãn động mạch chủ lên (đoạn vừa ra khỏi tim) hay gặp ở bệnh nhân tăng huyết áp.

Động mạch chủ lên ở người trưởng thành có kích thước trung bình 30mm. Khi kích thước >45 mm thì gọi là phình động mạch chủ. Đoạn động mạch chủ bị phình có thành mạch yếu, nếu huyết áp cao sẽ dễ gây tổn thương, xé rách các lớp trong thành mạch dẫn đến bóc tách thành động mạch hay vỡ động mạch chủ, khiến người bệnh tử vong.

Bệnh nhân tăng huyết áp có phình động mạch chủ cần kiểm soát huyết áp chặt chẽ (<120/70 mmHg), điều trị tích cực xơ vữa động mạch và theo dõi kích thước động mạch chủ thường xuyên bằng siêu âm tim hay chụp CT động mạch chủ.

– Bệnh động mạch ngoại biên

Ảnh hưởng của huyết áp lên toàn bộ hệ thông smạch máu trong cơ thể như động mạch cột sống, động mạch cảnh, động mạch thận, động mạch nội tạng và đặc biệt là những mạch máu ở xa như động mạch hai chân. Các mạch máu này cứng lên, bị xơ vữa, vôi hoá gây hẹp hoặc tắc nghẽn.

Nếu hẹp hay tắc mạch ở chân, người bệnh có triệu chứng đau cách hồi, nghĩa là đau đùi hoặc bắp chân khi đi đươcụ một đoạn đường, khi ngồi nghỉ thì sẽ hết hoặc bớt triệu chứng. Nặng hơn thì người bệnh đau nhức chân cả khi nghỉ hoặc loét chân không lành do mạch máu bị hẹp, không đưa máu tới chỗ xa được.

– Rối loạn trí nhớ và sa sút trí tuệ

Tăng huyết áp và rối loạn trí nhớ hay gặp ở người cao tuổi. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, tăng huyết áp làm tăng xơ vữa động mạch, dễ đưa đến nhồi máu não im lặng và bệnh lý chất trắng dưới vỏ não, là nguyên nhân dẫn đến rối loạn trí nhớ và sa sút trí tuệ.

– Rối loạn cương dương

Cứ 3 người tăng huyết áp thì có 1 người than phiền về rối loạn cương dương. Tình trạng này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nên cần phải được điều trị.

Tăng huyết áp làm tổn thương lớp trong cùng của thành mạch máu, gọi là lớp nội mạc. Lớp này tiết ra chất nitrite oxide, là một chất giãn mạch máu nội sinh trong cơ thể, chống lại co thắt mạch. Khi thiếu chất này, cơ trơn mạch máu ở dương vật bị co thắt, không giãn ra được và gây rối loạn cương cứng.

Để khắc phục tình trạng này, người bệnh cần được điều trị huyết áp và có thể sử dụng thuốc giãn mạch loại ức chế phosphodiesterase-5 sau khi đã tham khảo ý kiến bác sĩ. Một số thuốc hạ huyết áp cũng có tác dụng phụ gây bất lực, tuy nhiên thì thường ít và nếu có xảy ra thì bác sĩ sẽ thay thế bằng nhóm thuốc khác cho người bệnh.

Một số biến chứng khác của tăng huyết áp có thể kể đến như:

Đột quỵ;

Tổn thương thận…

Tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch tăng khi huyết áp cao. Với mức huyết áp bình thường 115/75 mmHg, cứ mỗi mức tăng HA thêm 20/10 mmHg thì nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch sẽ nhân lên gấp đôi.

Xem thêm

Vì sao tăng huyết áp làm tăng nguy cơ đột quỵ

8 hiểu lầm về tăng huyết áp cần tránh

3.Làm sao để phát hiện sớm các biến chứng của tăng huyết áp?

Người bệnh tăng huyết áp dễ bỏ thuốc hoặc không tái khám vì không có triệu chứng. Người bệnh thường bỏ qua, không điều trị cho đến khi có biến chứng, di chứng hoặc tử vong.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu thì giảm được 30% nguy cơ đột quỵ, 25% nhồi máu cơ tim và 23% bệnh thận mãn.

Để ngăn ngừa và phát hiện sớm các biến chứng của tăng huyết áp, người bệnh cần:

-Người >50 tuổi nên đo tầm soát huyết áp mỗi 6 tháng – 1 năm/lần;

-Nếu đã được chẩn đoán tăng huyết áp, người bệnh nên uống thuốc đều đặn, theo dõi mức huyết áp khi điều trị. Mức huyết áp mục tiêu thông thường là <=130/80 mmHg, trừ một số trường hợp đặc biệt có mức mục tiêu khác sẽ được bác sĩ thông báo;

-Định kỳ làm các kiểm tra cận lâm sàng: Tổng phân tích nước tiểu, tỷ lệ microroalbumin/creatinin niệu, đo điện tim, siêu âm tim…

-Duy trì chế độ sinh hoạt lành mạnh như tập thể dục đều đặn, hạn chế rượu bia, không hút thuốc lá, kiểm soát cân nặng, ăn uống hợp lý, giảm căng thẳng, áp lực cuộc sống cũng góp phần phòng ngừa các biến cứng của tăng huyết áp.

Hỏi & Đáp